Bà Nà đăng sơn !
Mấy ngày đăng sơn
lên thăm núi “Chúa”
“Ðường đi lên núi thì xa thăm thẳm, trong chốn
rừng già quanh co hàng mười mấy cây số, trèo non lội suối khó khăn, phải ngồi
kiệu mới lên được”…Ðường núi có nhiều
cây cối rậm rạp bùm tum, bóng tre mát rợp đường, không phải giương ô đội nón,
càng lên cao thì càng mát, thanh khí nhẹ nhàng, làm cho tinh thần khoan khoái,
mường tượng như giữa tiết trời xuân ở xứ hàn đới, khác hẳn với Tourane đương
gần ngày hạ chí vậy…”
… “Ngồi trên
kiệu ngó xuống đường, bên thì sườn núi vắt vẻo, bên thì hố sâu thăm thẳm, những
cây cao lớn mọc đầy la liệt, thành hàng ngay thẳng, ngó chẳng khác chi binh
lính bồng súng đứng chào, còn các thứ ký sinh như dây tơ hồng, chàm gởi, khô
mộc, ổ rồng bám trên cành cổ thụ lủng lẳng, chằng chịt như treo đèn kết hoa,
trông rất ngoạn mục, có chỗ đi qua mùi thơm sực nức, mà tìm không thấy hoa gì,
có lẽ hoa lan mọc trong hang sâu chăng”… Huỳnh Thị Bảo Hòa
Những trang "Ký sự Bà Nà" tác giả đã viết cách đây hơn 80 năm, một tư liệu quý cho việc tìm hiểu Bà Nà và Đà Nẵng xưa.
Đường bộ lên Bà Nà được hoàn thành vào cuối năm 1930, nhưng đó chỉ là đường đất mới được khai phá. Có đoạn lát đá, có đoạn hiểm trở không làm đường được thì bắt cầu tạm bằng mây tre để qua. Đường tuy có mở rộng hơn nhưng chỉ dùng cho đi bộ, Giữa năm 1938, người Pháp có thành lập vài tuyến du lịch từ Sài gòn, Hà Nội đến Bà Nà. Nhưng xe hơi, xe ngựa cũng chỉ đến địa phận thôn An Lợi rồi thay bằng võng hoặc kiệu dể đi tiếp. Kiệu chỉ là chiếc ghế dựa được cột vào hai đoạn tre. Phu kiệu là trai tráng khỏe mạnh là cư dân địa phương làm dịch vụ để đưa khách lên.
Một số ảnh do người Pháp chụp lúc bấy giờ còn
lưu lại cho thấy đường lên Bà Nà rất hiểm trở, khó khăn. Vì vậy để đưa một du
khách lên chơi Bà Nà phải có ít nhất là 6 phu phục vụ, bốn phu khiêng kiệu, một
dự bị thay đổi, và một chuyên gánh hành
lý, lương thực…
Đường bộ lên Bà Nà được hoàn thành vào cuối năm 1930, nhưng đó chỉ là đường đất mới được khai phá. Có đoạn lát đá, có đoạn hiểm trở không làm đường được thì bắt cầu tạm bằng mây tre để qua. Đường tuy có mở rộng hơn nhưng chỉ dùng cho đi bộ, Giữa năm 1938, người Pháp có thành lập vài tuyến du lịch từ Sài gòn, Hà Nội đến Bà Nà. Nhưng xe hơi, xe ngựa cũng chỉ đến địa phận thôn An Lợi rồi thay bằng võng hoặc kiệu dể đi tiếp. Kiệu chỉ là chiếc ghế dựa được cột vào hai đoạn tre. Phu kiệu là trai tráng khỏe mạnh là cư dân địa phương làm dịch vụ để đưa khách lên.
Phu kiệu du khách đi Bà Nà . |
Đi du lịch đối với đa số người Việt lúc
bấy giờ là thú chơi xa xỉ, ngay như gia đình bà Huỳnh Thị Bảo Hòa, gốc làng Đa
Phước, Hòa Minh, huyện Hòa Vang. Do sống không xa Bà Nà - Núi Chúa là bao, lại
là giới tân tiến nên mới có điều kiện đi nghỉ mát Bà Nà. Theo thống kê của người Pháp cho thấy, đến
năm 1925 chỉ mới có 120 người đến nghỉ mát ở đây, và mãi đến năm 1937 khi đường
sá được hoàn thành thì số người đến nghỉ ở Bà Nà cũng mới tròn 1.000 nhưng đa
số là người Pháp. Tròng khi dân Việt chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Sau năm 1945, người Pháp lần lượt rời
Việt Nam,
Bà Nà chẵng còn ai để ý, một phần do chiến tranh, một phần do bỏ hoang cộng với
thời tiết khí hậu và sự phá hoại của con người nên trở thành hoang phế.
Đến năm 1988, chính quyền thành phố Đà
Nẵng đã đầu tư xây dựng, tu bổ, phục chế một số công trình dân dụng, khu văn
hóa phật giáo với tượng Phật Thích Ca ngồi tự thiền hướng ra biển. Một tuyến
đường ô tô dài 15 km lên đến đỉnh Bà Nà… Những động thái trên đã đánh thức và làm sống
lại một Bà Nà xinh đẹp với khu du lịch nghỉ mát, sinh thái hấp dẫn được nhiều
người biết đến.
Tuy nhiên, đường lên Bà Nà lúc nầy với
những đoạn đèo dốc quanh co, uốn lượn. Những khúc cua ngặt “cùi chỏ” đã làm
không ít du khách thót tim “toát mồ hôi hột”. Tài xế đưa du khách lên xuống Bà
Nà lúc nầy là những người rất thuộc lòng đường sá ở đây . Vì vậy những chiếc xe trên 12 chỗ ở địa phương khác
đến, buộc phải dừng lại ở chân núi để tiếp tục trung chuyển hành khách. Nhiều người
có cùng nhận xét, đèo Hải Vân quanh co, nguy hiểm là vậy nhưng chẵng “thấm
tháp” vào đâu so với đường đèo ở Bà Nà !
“Chưa đi chưa
biết Bà Nà
Đi rồi mới thấy Bà Nhà sướng
hơn !”
Hai câu trên của mấy anh đàn ông ở Đà Nẵng bắt chước ai đó,
dần dần thành câu nói đùa ở cửa miệng khi đi Bà Nà về. Họ “nịnh khéo” Bà Nhà
cho có văn, có thơ chứ tuyệt nhiên không
thể chê vào đâu được với vẻ đẹp tuyệt vời của Bà Nà hoang sơ !
Đường
lên Bà Nà, du khách không còn vất vả phải trèo đèo, lội suối như xưa, hoặc
sướng ích gì để gọi là… “trãi nghiệm” khi bắt người khác phải khiêng, vác ! Và cũng
không còn cảnh “thót tim, đổ mồ hôi hột” khi qua những khúc cua ngặt như “cùi
chỏ” ngày nào.
Ngày
nay, du khách đến Bà Nà bằng cáp treo là trãi nghiêm mới, đầy lý thú khi được ngắm
toàn cảnh Bà Nà trên độ cao 1400m thông qua cabin kính trong suốt. Di chuyển
với tốc độ 6m/s, chiều dài trên 5 cây số. Với 15 phút trên cabin cáp, du khách
như lạc vào chốn bồng lai, tiên cảnh, nơi con người được đứng trên mây!
Từ cáp treo nhìn xuông dưới là những thảm
thực vật phong phú, nhiều tầng lớp, nhiều họ, nhiều màu sắc. Những tán cây
xanh bạt ngàn, tồn tại từ thời nguyên
sinh, những con suối, suối Mơ, suối Tóc Tiên… róc rách chảy từ ngàn năm nay, đã
xâm thực và bào mòn vào địa hình tạo thành những khe sâu với những hình thù và
màu sắc kỳ lạ. Trên các sườn núi cao xuất hiện vài phiến đá khổng lồ, bằng
phẵng có kích cở to lớn dị thường, nằm cheo leo bên triền núi. Dễ chừng đây là nơi chưa hề có dấu chân
con người đặt đến bao giờ! Nhìn về phía đông, thành phố Đà Nẵng đẹp với
sông Hàn và biển xanh bao quanh. Ban đêm, thành phố càng đẹp với những dãy đèn lấp lánh,những công trình
nhà cao, nhà thấp, những con đường thẳng
tắp, những chiếc cầu rực rỡ được thắp sáng bởi nghìn ánh đèn đêm .
Ngô Bá Dũng